Giá polyolefin trong nước ở Việt Nam đã có xu hướng đi xuống kể từ đầu tháng 2 do nhu cầu thấp và nguồn cung cao. Hầu hết những người tham gia thị trường dự đoán xu hướng giảm giá này sẽ tiếp diễn trong thời gian tới.
Dữ liệu về Chỉ số Giá của ChemOrbis cho thấy giá PP homo raffia và LDPE film nội địa trung bình hàng tuần đã giảm khoảng 6% trong một tháng kể từ tuần đầu tiên của tháng 2. Giá LLDPE và HDPE film đã giảm 2-3% trong cùng giai đoạn.
Giá nội địa tại Việt Nam trong tuần kết thúc vào ngày 10 tháng 3 được ước tính đạt 29.500.000-30.000.000 VND/tấn FD Việt Nam, tiền mặt bao gồm VAT (1132-1151 USD/tấn chưa bao gồm VAT) đối với LDPE film và 28.000.000-28.500.000 VND/tấn theo phương thức tương tự (1074-1093 USD/tấn chưa bao gồm VAT) đối với cả LLDPE và HDPE film. Trong khi đó, giá PPH raffia được ước tính trong khoảng 27.500.000-28.000.000 VND/tấn FD Việt Nam, tiền mặt bao gồm VAT (1054-1074 USD/tấn chưa bao gồm VAT).
Các nhà chuyển đổi giảm công suất vận hành nhà máy
Do nhu cầu đối với hầu hết các ứng dụng PP và PE vẫn yếu, nhiều nhà chuyển đổi ở Việt Nam cho biết họ tiếp tục giảm công suất vận hành nhà máy.
Một nhà sản xuất bao bì nông nghiệp cho biết nhà máy của họ đang hoạt động với công suất khá thấp, khoảng 30-40% vào thời điểm hiện tại. Ông lưu ý: “Chúng tôi không nghĩ rằng giá có thể tăng lên, vì vậy chúng tôi muốn giữ lượng hàng tồn kho thấp và mua khi chúng tôi có một số đơn hàng.”
Một nhà chuyển đổi khác sản xuất bao bì PE nhận xét: “Nhu cầu sản phẩm cuối cùng vẫn chưa cải thiện kể từ khi kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kết thúc. So với cùng kỳ năm ngoái, tình hình thậm chí còn tệ hơn. Để có thể duy trì hoạt động kinh doanh, chúng tôi đã không tăng giá sản phẩm cuối cùng mặc dù chi phí nguyên vật liệu cao. Trong trường hợp tăng giá, khách hàng của chúng tôi hoặc cắt giảm đơn đặt hàng hoặc bắt đầu tìm kiếm các lựa chọn thay thế rẻ hơn.”
Đồng nội tệ mất giá khiến người mua tránh xa hàng nhập khẩu
Các nhà chuyển đổi của cả PP và PE hiện ưu tiên nguồn cung trong nước hơn là hàng nhập khẩu được thanh toán bằng đô la Mỹ, do giá CIF vẫn cao khi đồng tiền Việt Nam suy yếu so với đồng bạc xanh.
Trong tuần kết thúc vào ngày 10 tháng 3, giá nhập khẩu của tất cả xuất xứ được ước tính đạt 1010-1110 USD/tấn PP homo raffia, 1110-1150 USD/tấn LDPE film, 1080-1110 USD/tấn HDPE film và 1060-1110 USD/tấn LLDPE film, đều theo phương thức CIF Việt Nam, tiền mặt.
“Chúng tôi muốn mua từ thị trường nội địa vì giá ở đây có thể thấp hơn giá nhập khẩu tới 50 USD/tấn. Nhưng nhu cầu sản phẩm cuối cùng không quá cao. Và, chúng ta không thể so sánh giá sản phẩm cuối cùn tại Việt Nam với giá tại các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ, vốn có lợi thế về giá cả và chi phí vận chuyển. Tình hình nền kinh tế trong nước cũng không tốt lắm và khách hàng của chúng tôi chỉ quay lại mua hàng cho những nhu cầu cấp thiết,” một nhà chuyển đổi cho biết. “Trong tình hình đó, giá PE và PP sẽ khó đi lên,” ông nói thêm.
Nhu cầu LDPE yếu hơn so với LL và HD
Một nhà kinh doanh địa phương cho biết giá LDPE đã giảm nhanh hơn giá LL và HD, vì LD được thay thế bằng các loại PE khác trong các ứng dụng khác nhau.
“Nhu cầu đối với tất cả các loại PE đều yếu, nhưng thị trường LDPE yếu hơn HD và LL,” ông nói. “Nhu cầu PE sau Tết Nguyên đán không tốt do hầu hết các nhà chuyển đổi đã bổ sung trước kỳ nghỉ lễ. Hầu hết những người tham gia thị trường chỉ mua hàng theo nhu cầu vì họ có nhiều tồn kho và không vội vàng bổ sung,” ông nói thêm.
Một nhà chuyển đổi cho biết người mua Việt Nam đang cân nhắc giá nhập khẩu ở đầu mức 1000 USD/tấn. “Cả thị trường nội địa và nhập khẩu đều chậm. Hầu hết chúng tôi đang chờ xem,” ông nói thêm.
Share article:
Copyright @ 2015 - 0. All rights reserved.
Tel: (+84) 225.3798.886 | Fax: (+84) 225.3798.887
E-mail: sale02@vanlongplastic.com.vn | Website: http://www.vanlongplastic.com.vn/